Chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng Non Nước, Chùa Tam Tôn, chùa Từ Tâm nằm trên núi Thúy Sơn – Ngũ Hành Sơn.
Chùa Tam Thai
Chùa Tam Thai nằm trên ngọn Thủy Sơn thuộc danh thắng Ngũ Hành Sơn. Đây là một ngôi chùa cổ được xem là quốc tự và di tích Phật giáo. Theo tài liệu Hán – Nôm còn lưu lại như văn bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” ở động Hóa Nghiêm có thể đoán định chùa Tam Thai được xây dựng vào những năm nửa đầu thế kỷ XVII, theo sách “Việt Nam danh lam cổ tự” thì chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê khoảng năm 1630, còn theo ngài Thích Đại Sán ghi trong “Hải Ngoại Ký Sự” thì vào năm Ất Hợi (1695), thì ngài đã đến thăm ngôi chùa này.

Sau này, do thời cuộc chiến tranh và thời tiết khí hậu khắc nghiệt, chùa Tam Thai đã hư hại, xuống cấp và được sửa chữa, trùng tu nhiều lần. Tương truyền, trong một cuộc giao tranh đánh nhau với nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lúc bây giờ đã tạm thời lánh nạn tại đây, khi gặp một vị thiền sư giảng đạo, Nguyễn Ánh nghe xong liền phát nguyện rằng: “Sau này tôi phục quốc xong, tôi sẽ tô điểm thêm nơi danh lam thắng cảnh này cho được huy hoàng tráng lệ.” Thế nhưng, sau này khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long, nhưng do bận công việc triều chính chưa thực hiện được tâm nguyện, nên có di chúc lại cho con là vua Minh Mạng thực hiện. Vào năm 1825, khi vua Minh Mạng viếng thăm Ngũ Hành Sơn đã cho xây dựng, tu bổ lại chùa Tam Thai, đồng thời cũng cho đúc các tượng phật, đúc các cổ chuông lớn bằng đồng và ban cho chùa một tấm biển ghi rõ: “Ngự chế Tam Thai Tự, Minh Mạng lục niên phụng tạo” tạm dịch: (Ban sửa sang lại chùa Tam Thai, năm Minh Mạng thứ 6 tạo lập). Cũng trong thời gian này, chùa Tam Thai đã được phong là “Quốc Tự”, các quy định về giáo phẩm, Tăng đồ, phân bố Tăng chúng đều do triều đình quyết định. Sau khi công nhận là Quốc Tự, nhà vua đã sắc dụ bổ nhiệm Ngài Trần Văn Trừng, Pháp danh Viên Trừng, ở làng Xuân Đài, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, lúc bây giờ Ngài đang tu ở chùa Thiên Mụ (Huế) về làm trụ trì chùa Tam Thai và triều đình cũng cấp lương cho các vị trụ trì và Tăng chúng để ăn ở tu hành. Chuyện kể, lúc bấy giờ, có Công chúa con vua Gia Long, em gái vua Minh Mạng, khi đến Ngũ Hành Sơn, do yêu mến cảnh đẹp nơi đây, Công chúa đã xin xuất gia và thọ giới với Ngài Viên Trừng. Khi vua Minh Mạng biết được đã khuyên em và triệu hồi về cung để lấy chồng, nhưng Công chúa không chịu và làm một bài thơ gởi cho vua Minh Mạng.
Qua thời gian dài tồn tại, đến năm 1901, một trận bão dữ dội đã tàn phá toàn bộ ngôi chùa, mãi đến năm 1907, ngôi chùa mới được xây dựng lại theo kiểu chữ nhất (一), mái chùa lợp ngói lưu ly tròn, phía trên nóc trang trí hình “lưỡng Long chầu Nguyệt”. Trong chùa trước kia thờ phật Di Lặc bằng đồng ở giữa, bên trái là tượng Quan Công bằng gỗ, bên phải là tượng Hộ Pháp bằng đồng, tượng Tả Phù, Hữu Bật ở hai bên cửa ra vào cùng với Thập Bát La Hán. Đến năm 1995, ngôi chùa một lần nữa được trùng tu, tôn tạo, được xây dựng bằng xi măng cốt sắt kiên cố, mặt xây về hướng nam, mái có hai tầng, lợp ngói âm dương, trên nóc trang trí hình “lưỡng Long chầu Nguyệt” và tượng tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng. Các cây cột ở tiền đường đều trang trí hình rồng, phụng. Hiện nay, chùa thờ 4 vị thần: Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Thích Ca, Văn Thù Bồ Tát và một số tượng Hộ Pháp, Tiêu Diện…Tại khu vực chính điện của chùa vẫn còn lưu giữ một số hoành phi, liên đối có từ thời các vua triều Nguyễn. Trong đó, nổi bật nhất là bức hoành “Ngự chế Tam Thai Tự”, được phụng lập năm Minh Mạng thứ 6 (1825) : 御 製 三 台 寺
Hay các bức liễn đối sau:
Câu đối thứ 1:
佛 即 心 心 即 佛 心 齋 成 佛
人 弘 道 道 弘 人 道 不 遠 人
Phật tức tâm, tâm tức Phật, tâm tra thành Phật
Nhân hoằng đạo, đạo hoằng nhân, đạo bất viễn nhân
Phật là tâm, tâm cũng là Phật, tâm tịnh là Phật,
Người mở mang đạo, đạo khai sáng người, đạo chẳng xa người.
Lạc khoản bên phải đề: “Thành Thái Canh Tý trọng hạ” (Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Tý (1900) niên hiệu Thành Thái. Lạc khoản bên trái đề: “Thạch Bộ tòng Cửu phẩm Lê Nhân thọ trì pháp danh đệ tử Chơn Xuân, Bảo An tòng Cửu phẩm Phan Diễn thọ trì pháp danh đệ tử Như Huệ đồng phụng cúng” (Đệ tử thọ trì [Tam quy ngũ giới]: Tòng cửu phẩm Lê Nhân, pháp danh Chơn Xuân, người làng Thạch Bộ; Tòng cửu phẩm Phan Diễn, pháp danh Như Huệ, người làng Bảo An đồng phụng cúng.
Câu đối thứ 2:
積 善 有由 来 仙 源 慶 衍
得 道 謂 可 量 法 派 榮 陞
Tích thiện hữu do lai, Tiên nguyên khánh diễn,
Đắc đạo vị khả lượng, Pháp phái vinh thăng.
Tích thiện bao đời nay, nguồn Tiên nối mãi,
Đắc đạo khó nghĩ bàn, Pháp phái bền lâu.
Lạc khoản bên phải đề: “Bảo Đại nguyên niên xuân” (Mùa xuân năm Bảo Đại thứ nhất (1925). Lạc khoản bên trái đề: “Tăng mục: Lê Tích, Phạm Hựu, Võ Lãm, Đặng Mão; Tăng chúng: Nguyễn Trác, Võ Lịch, Lê Huyền, Lê Giám hòa thượng” (Tăng mục Lê Tích, Phạm Hựu, Võ Lãm, Đặng Mão; tăng chúng Nguyễn Trác, Võ Lịch, Lê Huyền, Lê Giám).
Câu đối thứ 3:
優 鉢 花 開 香 遍 禅 林 光 祖 印
菩 提 樹 長 蔭 垂 福 地 振 尊 風
Ưu bát hoa khai, hương biến thiền lâm quang tổ ấn,
Bồ đề thụ trưởng, ấm thùy phước địa chấn tôn phong.
Hoa Ưu bát nở, hương ngát rừng thiền, rạng ngời tổ ấn,
Cây Bồ đề lớn, tán che đất Phật, hưng phát tông phong.
Lạc khoản bên phải đề: “Bảo Đại tam niên, Ngự chế Tam Thai, Linh Ứng nhị tự Tăng cang Hòa thượng nhã giám” (Niên hiệu Niên đại năm Bảo Đại thứ 3 (1927), kính dâng hòa thượng Tăng cang quan tự Tam Thai và Linh Ứng chứng giám). Lạc khoản bên trái đề: “Bổn tỉnh chư sơn tự đồng tặng” (Các chùa trong tỉnh đồng kính tặng).
Điều đặc biệt là cho đến ngày nay dấu tích còn lại của ngôi chùa xây dựng từ thời Minh Mạng vẫn còn đó là bờ thành chung quanh chùa (còn gọi là hành cung) và cổng Tam Quan.
Trên nóc cổng Tam Quan còn lại một tấm bia đá cẩm thạch thuộc loại hình bia gửi giỗ. Bia không lớn, chữ khắc nhỏ, nông và số lượng chữ cũng không nhiều. Bia được dựng năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1894). Nội dung nói đến việc đệ tử Lại Thị Khuê, pháp danh Chơn Quế ở xứ Bà Bồi, châu Nhân Bồi, tổng Mỹ Khê, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn phụng cúng tạo bia đặt việc tế tự cho tiên linh nhà họ Lại tại chùa Tam Thai, giao 200 quan tiền để lo việc cúng giỗ hai kì xuân thu mỗi năm. Đến năm Kỷ Mùi (1859), Hà Thị Tăng cúng 60 quan tiền, tổng cộng trước sau 260 quan, mua 1 sào 5 thước ruộng tại xứ cát trắng xã Quán Khái đặt làm ruộng tế tự tổ tiên, giấy tờ bán ruộng của Hoàng Bá Thế lưu giữ tại chùa. Văn bia cũng liệt kê tên tuổi của những người cần cúng tế.
Văn bia gửi giỗ xuất hiện khá nhiều vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Qua thác bản in rập được giới thiệu trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, thấy rằng bia gửi giỗ có nhiều ở vùng đất Quảng Nam, đặc biệt là thành phố Hội An. Riêng ở Đà Nẵng, đây là tấm bia gửi giỗ duy nhất hiện còn biết được.
Sau lưng chánh điện là nhà thờ Tổ, nguyên nhà thờ Tổ trước đây ở phía bên phải chùa, cách chánh điện khoảng 30m, nhưng trong lần trùng tu, sửa chữa vào năm 1995, nhà thờ Tổ được dời về vị trí hiện tại để thờ Tổ Bồ Đề Lạt Ma và long vị của các chư vị Hòa Thượng đã trụ trì và mất tại chùa, ngoài ra, còn thờ Tăng chúng và tín đồ phật tử quá cố. Hiện nay, tại đây đang lưu giữ tấm biển bằng đồng, mạ vàng có hình dạng “lá đề” (thường được gọi là quả tim lửa), cao 57,5cm, rộng 41cm, dày 2cm, chung quanh có chạm khắc hình ngọn lửa, hai mặt có các dòng chữ do chính vua Minh Mạng ngự ban.
Mặt trước ghi:
我 如 來 以 法 王 御 世 弘 濟 人 天 變 現十方
虛 空 常 住 作 十 大 功 德 而 炎方 獨 厚焉
Phiên âm:
Ngã như lai dĩ pháp vương ngự thế, hoằng tế nhơn thiên biến hiện thập phương hư không thường trú, tác thập đại công đức nhi viêm phương độc hậu yên.
Dịch nghĩa:
Đức Như lai đã cai quản thế gian này bằng pháp môn vô thượng, tế độ khắp cõi trời, người, hiện thân khắp mười phương, thường trú trong cõi hư không, tạo ra mười công đức lớn mà riêng nước nam ta chịu ơn huệ sâu dày này.
Mặt sau ghi:
明 命 陸 年 吉日 造
Phiên âm:
Minh Mạng lục niên kiết nhật tạo
Dịch nghĩa:
Được làm năm Minh Mạng thứ 6 ngày tốt.
Ngoài ra, tại Nhà thờ tổ chùa Tam Thai còn lưu giữ khá nhiều hoành phi, câu đối làm bằng gỗ, sơn son thép vàng như hoành phi được lập vào các năm Thành Thái và Bảo Đại và những di vật khác có giá trị về lịch sử và văn hóa như sau:
– 06 chuông đồng, trong đó có 03 chuông được ghi niên đại cụ thể, gồm chuông đồng có niên hiệu Khải Định thập niên (1925), cao 25cm, đường kính miệng 22cm; chuông đồng có niên hiệu Thành Thái năm Giáp Thìn (1904), cao 40cm, đường kính miệng 44cm; chuông đồng có niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1926), cao 17cm, đường kính miệng 48cm.
– Tượng Bồ tát Văn thù và Bồ tát Phổ Hiền bằng đồng nguyên khối. Đây là 2 pho tượng cổ vốn được thờ phụng tại chùa Trang Nghiêm ở động Huyền Không.
Ngoài cổng Tam quan về phía phải đi lên mấy bậc cấp là đến Vọng Giang Đài, đứng nơi đây có thể nhìn bao quát vùng đất Ngũ Hành Sơn, với cảnh đẹp của đồng ruộng và sông ngòi, tại đây có tấm bia bằng Sa thạch khắc ghi 3 chữ Hán “Vọng Giang Đài”.
Chùa Linh Ứng Non Nước – Núi Thủy Sơn
Cũng như chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng tọa lạc trên ngọn Thủy Sơn, chùa quay về phía đông, trông ra biển, đây cũng là ngôi chùa cổ và lớn ở Ngũ Hành Sơn.

Về lịch sử hình thành chùa Linh Ứng, theo tài liệu và lời kể của các vị Hòa thượng trụ trì tại chùa, thì dưới thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1780), có một vị ẩn sĩ đến tu tại động Tàng chơn, Ngài có tên là Quang Chánh, hiệu là Bảo Đài Đại Sư. Lúc đầu mới đến Ngài dựng một thảo am để ở gọi là “Dưỡng Chơn Am”. Sau một thời gian Ngài dựng một gian nhà tranh ở trước động Tàng Chơn và lấy hiệu là “Dưỡng Chơn Đường”. Khi vua Minh Mạng đến viếng cảnh Ngũ Hành Sơn, cùng lúc cho xây dựng lại chùa Tam Thai, nhà vua cũng cho xây lại “Dưỡng Chơn Đường” bằng gạch, ngói và đặt tên là “Ứng Chơn Tự” 應真寺 (chùa Ứng Chơn), tên này được khắc ghi trong tấm hoành phi hiện vẫn còn tại chùa, với dòng chữ “Ngự chế Ứng Chơn Tự, Minh Mạng lục niên phụng tạo” và ngôi chùa cũng được công nhận là Quốc Tự, đồng thời nhà vua đã sắc dụ bổ nhiệm Ngài Trần Văn Như pháp danh Chơn Như Đại Sư đang tu tại chùa Long Quang ở Huế về làm trụ trì chùa Ứng Chơn. Đến năm Thành Thái thứ 3 (1891), do kỵ húy nên chùa Ứng Chơn đã đổi lại thành tên chùa Linh Ứng và được ghi lại trên một tấm hoành phi: “Cải tứ Linh Ứng tự, Thành Thái tam niên” – Đổi lại thành chùa Linh Ứng, năm Thành Thái thứ 3 (1891). Tên chùa Linh Ứng từ đó tồn tại cho đến ngày nay .
Cũng như chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng qua thời gian và chiến tranh đã bị hư hại, nhất là bị tàn phá bởi trận bão năm 1901, sau đó chùa được xây dựng lại. Trong chùa thờ Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Di Đà, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Thập Bát La Hán…Đến năm 1992, chùa đã được trùng tu, sửa chữa lại kiên cố hơn bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói âm dương, trên nóc chùa trang trí hình “lưỡng Long chầu Nguyệt”, cổng tam quan cũng được xây dựng và trang trí khá đẹp. Bên trong chánh điện, ở chính giữa đặt bàn thờ đức phật Thích Ca Mâu Ni ngồi niết già trên tòa sen rất trang nghiêm, thanh tịnh, hai bên là hai bàn thờ, thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đức Địa Tạng Bồ Tát, hai bức tường hai bên, có hai bàn thờ, thờ Thập Bát La Hán.
Bên phải chùa là Quan Âm Các xây trên một hồ nước và các bảo tháp, trong đó có tháp của ngài Bảo Đài Đại Sư và các vị Hòa Thượng trụ trì tại chùa. Bên cạnh chùa Linh Ứng về phía Đông Nam còn có ngôi tháp của Hòa thượng Thích Hương Sơn và ngôi tháp Đa Bảo bảy tầng cao khoảng 20m rất nguy nga, được xây vào năm 1996, mặt tiền tháp xây về hướng Đông, bên trong mỗi tầng tháp đều thờ tượng Phật, chư vị Bồ Tát, các vị đại đệ tử của đức Phật.
Ở chùa Linh Ứng hiện còn lưu giữ nhiều bức hoành phi được lập vào các đời vua triều Nguyễn như bức “Ngự chế Ứng chân tự” 御製應真寺 – lập năm Thành Thái thứ 9 (1897), “Sắc tứ Linh ứng Tự” 敕賜靈應寺- lập năm Thành Thái thứ 3 (1891), “Hữu tâm tượng giáo” 有心象教 – lập năm Thành Thái thứ 12 (1900), “Tuệ mệnh khả kế” 慧命可繼 – lập năm Bảo Đại thứ 8 (1933)…
Hay các liễn đối như:
五 行 上 蓮 座 花 香 慈 雲 滿 布 慧 日 騰 輝 普 度 衆 生 多 妙 力
卅 年 前 派 誠 節 鎮 登 望 海 臺 陟 玄 空 洞 曠 懷 世 界 一 奇 觀
Ngũ Hành thượng liên tòa hoa hương, từ vân mãn bố, tuệ nhật đằng huy, phổ độ chúng sinh đa diệu lực,
Tạp niên tiền phái thành tiết trấn, đăng Vọng Hải đài, trắc Huyền Không động, khoáng hoài thế giới nhất kỳ quan.
Trên núi Ngũ Hành, tòa sen ngát hương, mây lành che khắp, đuốc tuệ rạng soi, phổ độ chúng sinh nhờ bao diệu lực,
Ba mươi năm trước đến đây trấn nhậm, lên đài Vọng Hải, trèo động Huyền Không, mới thấy [thực là] kì quan bậc nhất đất nước.
Lạc khoản bên phải đề: “Bảo Đại thập lục niên xuân” (Mùa xuân năm Bảo Đại thứ 16 (1940). Lạc khoản bên trái đề: “Thái tử Thiếu phó Cần Chánh điện Đại học sĩ Phụ chính thân thần trí sự Cố vấn nguyên lão Phù Quang quận công Tôn Thất Hân cung đề” (Thái tử Thiếu phó Cần Chánh điện Đại học sĩ Phụ chính thân thần trí sự Cố vấn nguyên lão Phù Quang quận công Tôn Thất Hân kính đề).
Hoặc
錦 石 清 奇 修 得 到
慈 雲 布 護 福 無 量
Cẩm thạch thanh kì tu đắc đáo,
Từ vân bố hộ phước vô lường.
Núi đá tuyệt đẹp, nên đến [đây] thưởng ngoạn,
Mây lành che khắp, phước thật vô lường.
Lạc khoản bên phải đề: “Hoàng triều Quý Dậu xuân” (Mùa xuân năm Quý Dậu thuộc Hoàng triều Bảo Đại (1933). Lạc khoản bên trái đề: “Sắc tứ Vu Lan tự bổn đạo quan viên đồng trang phụng” (Quan viên, bổn đạo chùa sắc tứ Vu Lan phụng cúng).
Cạnh chùa về bên trái là nhà thờ Tổ, nhà thờ xây dựng để thờ các vị Hòa Thượng đã trụ trì và mất tại chùa. Ở gian giữa nhà thờ, phía trên và chính giữa bàn thờ có một tấm biển ghi: “Lâm Tế Tông Phổ Lịch Đại Giác Linh” và trên bàn thờ có đặt các bài vị ghi tên các vị Hòa Thượng đã quá vãng.
Đặc biệt, trước nhà thờ Tổ còn có một phần đài thờ thuộc phong cách Đồng Dương, chạm hình thần Indra cỡi voi, chung quanh có các Apsara múa hát. Phần đài thờ này có chiều dài 0,9m, chiều ngang 0,47m và chiều cao khoảng 0,60m, được chạm trổ ở cả ba mặt, mặt thứ tư phía sau không thấy khắc, chạm. Nếu so với những phần đài thờ khác cùng phong cách đang trưng bày tại Bảo tàng Điêu Khắc Chăm, thì phần đài thờ này có lối thể hiện khá lạ. Chính giữa tác phẩm là hình tượng thần Indira (thần biểu tượng sấm sét) đang ngồi trên mình một con voi, với chân trái của thần đặt theo lỗi ngồi xếp bằng, lòng bàn chân ngửa hướng lên phái trên, bàn tay trái đặt lên đầu gối chân trái, còn chân phải co lại đầu gối đến ngang ngực, bàn tay phải cầm vật gì không rõ, cũng đặt lên đầu gối chân phải, gương mặt Thần trang nghiêm, đầu đội loại mũ Kirita Mukuta, tai dài, hoa tai buông xuống ngang vai có hình đoá hoa 4 cánh nhưng đã mòn mờ, Thần mặc loại Sampot ngắn, ngực và bụng để trần, còn voi được thể hiện trông rất ngộ nghĩnh, vòi dài và to, hai tai đang vểnh, bốn chân trong tư thế đang bước đi, đuôi dài đến gót chân. Ở hai bên Thần Indra chạm hình các nhạc công và sư tử được bố cục như sau: ở phía trên là hai nhạc công Gandhava và phía dưới là hai sư tử, tất cả đều quay lưng lại với nhau và đối xứng qua trục giữa là thần Indra, các nhạc công đang trong tư thế múa hát, mặt rạng rỡ tươi vui, đồ đội và trang phục giống Thần Indra, còn hai con sư tử trong tư thế ngồi với hai chân trước giơ lên, miệng há rộng, nhe răng, nét chạm khá đơn giản. Hai mặt còn lại của đài thờ, bên hông trái và phải cũng thể hiện hai Gandhava và hai con sư tử cùng một kiểu thức với mặt chính diện. Ngoài ra trên phần đài thờ còn chạm trổ các đoá hoa sen cách điệu thành những đường kỷ hà và trang trí các diềm hoa văn hình con sâu thường thấy ở thời kỳ nghệ thuật Phật giáo Đồng Dương, nét chạm có độ sâu cạn vừa phải đã tôn bố cục các hình tượng chính như Thần Indra, Gandhava và sư tử một cách khá uyển chuyển và sinh động. Với loại hình đồ đội Kirita Mukuta có chạm những đoá hoa thường là 4 đến 5 cánh trên các đồ trang sức của thần Indra, Gandhava hay kiểu ngồi của thần Indra (một chân co, một chân xếp bằng), cho thấy phần đài thờ này đã ảnh hưởng sâu sắc phong cách nghệ thuật Java – Indonesia và có niên đại vào thời kỳ cuối của phong cách nghệ thật Đồng Dương khoảng nửa đầu thế kỷ thứ X.
Ngoài ra, chùa Linh Ứng còn bảo lưu được 02 pho tượng quý, bằng gỗ: Tượng Bồ tát Địa tạng và tượng Bồ tát Quan Âm, mang phong cách tiêu biểu cho mỹ thuật và chế tác tượng đầu vương triều Nguyễn (thế kỷ XIX).
Chùa Tam Tôn – Núi Thủy Sơn
Chùa Tam Tôn, trước kia nguyên là một tăng đường của chùa Tam Thai, được xây dựng làm nơi nghỉ dưỡng cho các vị Sư Tăng tu hành tại chùa Tam Thai.
Năm 1973, Hòa thượng Huệ Tràng trụ trì tại chùa Tam Thai do tuổi cao sức yếu, đã xin Giáo hội Phật giáo Đà Nẵng cho an dưỡng tại Tăng đường này, đồng thời sửa chữa và nâng cấp lên thành một ngôi chùa, lấy tên là Tam Tôn. Chùa thờ Đức Phật A Di Đà, Đức Đại Thế Chí Bồ Tát và Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Sau khi Hòa thượng Huệ Tràng viên tịch, chùa lượt lượt trải qua các đời trụ trì khác với pháp hiệu là Thích Thị Hải, Thích Huệ Quang. Hiện nay, chùa Tam Tôn được Đại Đức Thích Thị Khang trụ trì.
Hiện nay, chùa vẫn còn lưu giữ 03 bức hoành phi được tạo lập vào năm Canh Tý triều Thành Thái (1900) như 尊三堂 “Tôn Tam đường”, 麓日“Lộc nhật”, 寳珠 “Bảo châu” và 07 mộc bản khắc kinh, kệ.
Chùa Từ Tâm – Núi Thủy Sơn
Theo lưu truyền, chùa Từ Tâm được xây dựng dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1460 – 1497). Bấy giờ có một vị Hòa thượng quý danh Từ Tâm người miền Bắc vào tu và tìm đường học đạo tại Ngũ Hành Sơn, dưới chân núi Thủy Sơn. Sau một thời gian tu hành, Hòa thượng Từ Tâm đã xây dựng lên ngôi chùa này. Chùa ban đầu vốn chỉ dựng bằng phên tre mái lá để thờ Phật và làm nơi tu học.
Đến thời Tây Sơn – Chúa Nguyễn, chùa đã bị tàn phá do chiến tranh giữa hai bên.
Đến năm 1826, trong dịp trùng tu các chùa tại Ngũ Hành Sơn, vua Minh Mạng đã cho xây dựng lại chùa Từ Tâm bằng gạch ngói. Chùa giống như một cái am hoặc cốc nhỏ. Bên trong thờ Điạ Tạng, có bàn thờ tưởng nhớ các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê. Ngoài ra còn có bàn thờ để thờ các linh hồn lạc lõng là nạn nhân của sóng biển, chiến tranh bị người đời lãng quên. Chùa là một nhánh của Tổ đình Chúc Thánh tại Hội An, được giao cho các vị Sư Tăng tại chùa Tam Thai trông nom hương khói, chưa có người trụ trì chính thức.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngôi chùa để trống, tuy nhiên các cơ sở vật chất thì vẫn còn nguyên vẹn, không bị hư hại nhiều. Sau khi chiến tranh kết thúc, khoảng năm 1980 chùa được Sư thầy Đại Đức Thích Thánh Hoàng vốn tu hành tại chùa Linh Ứng về trụ trì tại chùa. Sư thầy đã tiến hành trùng tu lại mái chùa, sửa sang lại tường gạch, trông nom hương khói và kinh pháp.
Năm 1994, chùa tiếp tục được Đại Đức Thích Chúc Huệ thường trú tại chùa tiến hành trùng tu lại, xây dựng thêm một số các công trình mới.
Hiện nay, ngôi cổ tự Từ Tâm về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn với chiếc am nhỏ mái vòm có lịch sử gần 200 năm xây dựng. Bên cạnh đó, chùa đã xây dựng thêm các công trình khác như nhà Lục Giác thờ tượng Phật nghìn mắt nghìn tay, nhà Tăng…, nhằm phục vụ cho việc tu hành và phổ độ Phật pháp của các Sư Tăng tại chùa.
436 total views, 1 views today